Thứ Tư, 3 tháng 12, 2014

TÌM HIỂU NHỮNG NÉT VĂN HỌC ĐẶC SẮC CỦA HÁN TẠNG PHẬT GIÁO






TÌM HIỂU NHỮNG NÉT VĂN HỌC ĐẶC SẮC CỦA HÁN TẠNG PHẬT GIÁO QUA “THẤT DỤ” TRONG KINH PHÁP HOA
Đức Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên “đem lại hạnh phúc cho chư thiên và loài người”. Ngài xuất hiện trên đời này là vì hết thảy chúng sanh đang khổ đau, vọng tưởng đảo điên nhận huyễn làm chơn, bỏ hình theo bóng cho nên Ngài muốn cho chúng sanh nhận chân rõ sự thật, nhận được cái lẽ chân thật của cuộc đời và nhận ra cái bản thể thanh tịnh của mình. Ngài chỉ cho chúng sanh thấy rõ tri kiến thanh tịnh của Như lai để không còn luôn hồi sanh tử nữa. Tri kiến ấy được thể hiện rõ qua Kinh Pháp Hoa, một  bộ kinh lớn Đại thừa hàm chứa ý nghĩa rất sâu xa và phong phú về ngôn ngữ biểu tượng.  Đặc biệt, kể từ khi kinh tam tạng kinh điển được hình thành và được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau, tư tưởng phật pháp đã đi sâu và ảnh hưởng đến  mọi lĩnh vực của đời sống con người. Điển hình rõ nét nhất là mọi người trên thế giới hiện nay được biết đến Phật pháp trước tiên là nhờ vào Kinh Pháp Hoa. Trong khi phiên dịch, trước tác bộ kinh này, những vị tổ sư đã khéo léo dùng nhiều phương tiện nghệ thuật trong kết cấu văn chương, một mặt giúp cho người học hiểu được thánh ý của Phật một cách dễ dàng, mặt khác tạo ra nguồn cảm hướng mới mẽ trong sáng tác văn học và nghệ thuật .

2. Phạm vi nghiên cứu:

Ðại Tạng kinh Hán văn là một bảo vật vô giá của Phật giáo nói riêng và cho cả nền văn hóa thế giới nói chung. Chính từ Ðại Tạng kinh Hán văn  mới có Ðại Tạng  kinh Nhật văn, Triều Tiên văn, đặt biệt nhờ đại tạng Kinh Hán văn mà chúng ta có được bản kinh Pháp Hoa để tụng đọc và hành trì như ngày nay. Bên cạnh đó, quá trình dịch thuật kinh điển từ Phạn văn sang Hán văn cũng như từ Hán văn sang các ngôn ngữ khác đã kích thích một cuộc cách mạng  lớn trong các nền văn học, điển hình là văn học kinh tạng Phật giáo. Để tìm hiểu tính văn học trong kinh tạng Phật giáo, cụ thể là tính văn học trong Kinh Pháp Hoa. Tuy nhiên Pháp Hoa là một bộ kinh dài lại rất cao thâm, trong phạm vi tiểu luận ngắn này người viết chỉ triển khai khía cạnh, “Những nét văn học đặc sắc của hán tạng Phật Giáo qua “Thất Dụ” trong Kinh Pháp Hoa”.

 3. Phương pháp nghiên cứu và tính thiết thực của đề tài:

Đối với đề tài này, người viết trình bày ý tưởng bằng sự tổng hợp, chọn lọc, trích dẫn, phân tích những ý kinh được chư Tôn Đức giảng giải thông qua học trực tiếp và từ kinh sách. Trên cơ sở đó, bài viết sẽ được thêm những phần gọi là cái hiểu biết của học Tăng để làm cho độc giả phần nào tiếp nhận dễ dàng hơn.
Cuộc sống nhân sinh chừng nào còn khổ đau thì nhu cầu về học Phật chừng ấy cần được diễn giải để phổ biến. Bộ Kinh Pháp Hoa ngày càng được công chúng ở mọi tầng lớp nghiên cứu và tu tập nên có thêm những tài liệu tham khảo sẽ không thừa nếu không muốn nói là cần thiết. Đó là tính thiết thực của đề tài luận văn.
 B. NỘI DUNG: 
CHƯƠNG ISƠ LƯỢC VĂN HỌC HÁN TẠNG
I.1. Nội dung của Phật giáo Hán tạng
Phật giáo từ lúc khai sáng cho đến nay đã hơn 2500 năm, sự ảnh hưởng của Phật giáo đã lan rộng khắp cõi Á Châu, trở thành một bộ phận quan trọng trong nền văn minh Đông Phương. Gần đây Phật giáo trong sự giao lưu văn hoá Đông Tây đã dần dần ảnh hưởng đến các nước phương Tây, từ đó trở thành tôn giáo thế giới. Phật giáo đã để cho nhân loại vô số những kinh sách. Những kinh sách này không những là tài sản quý giá của nhân loại, xã hội, văn hoá sử, mà còn là những tư liệu phong phú để nghiên cứu về Phật giáo và những môn học có liên quan.
Đại tạng kinh Hán văn là tổng tập văn hiến kinh sách Phật giáo Hán văn. Nội dung của nó bao gồm các kinh điển chữ Hán từ Lưỡng Hán do các nhà phiên dịch các đời phiên dịch từ nguyên điển Phật giáo Ấn Độ thành Hán văn, còn được gọi là Tam Tạng kinh điển Phật giáo, còn bao gồm sớ giải Tam Tạng kinh điển do các vị Tăng - tục học giả Phật giáo nhiều đời đã biên soạn,  để phát huy và xiển thuật lý luận giáo nghĩa Phật giáo, cùng các tác phẩm về lịch sử phát triển và lưu truyền của Phật giáo.
Sự hình thành của Đại tạng kinh Hán văn Phật giáo, nếu tính từ niên đại dịch kinh đầu tiên, đã trải qua thời gian hơn 1000 năm. Trong khoảng hơn 1000 năm đó, các nhà dịch kinh trong và ngoài nước đã dịch khoảng 6000 quyển nguyên điển Phật giáo Ấn Độ thành Hán văn. Những kinh điển đó bao gồm Kinh Luật Luận Đại thừa, Kinh Luật Luận Nguyên Thuỷ và Truyện Tập Thánh Hiền, cơ hồ đã bao gồm toàn bộ kinh điển được lưu truyền từ lúc Phật giáo mới sáng lập cho đến thế kỷ thứ 13. Những kinh sách này tuy ra đời ở Ấn Độ và Trung Á, nhưng Ấn Độ và Trung Á ngày nay, trải qua nhiều sự thay đổi của lịch sử dường như đã không còn bao nhiêu. Sự thật, nguyên điển Phật giáo Ấn Độ về mặt cơ bản là nhờ vào sự thành tựu văn hoá Hán địa đã được bảo tồn một cách hoàn chỉnh.
Phần Tam tạng trong Đại tạng kinh Phật giáo Nam Truyền chỉ tương đương phần Tam tạng Phật giáo nguyên thuỷ trong Đại tạng kinh Hán văn; mà Đại tạng kinh Phật giáo Tạng Truyền thì chú trọng về tam tạng Đại thừa, đặc biệt là sự truyền dịch kinh điển Mật giáo thì không có cách nào so sánh với sự hoàn chỉnh của Đại tạng kinh Hán văn. Vì thế, Tam tạng của Đại tạng kinh Phật giáo tiếng Hán là sự cống hiến của văn minh Trung Hoa đối với văn hoá Ấn Độ, và cũng là sự cống hiến lớn đối với văn hoá thế giới, là một di sản quí báu của văn hoá thế giới hiện đại.
I. 2. Quá trình hình thành Kinh điển Hán tạng.
I. 2.1.  Định nghĩa Đại Tạng kinh:[1]
Nguyên ý Phạm văn của chữ “Tạng” là cái giỏ tre để đựng đồ, vì các vị tăng sĩ Ấn Độ thời xưa thường đem những kinh chép trên lá bối bỏ vào trong đó, sau đó mới dùng chữ này để thay thế cho kinh điển Phật giáo, có ý nghĩa là “toàn thư”.
Tạng Kinh về nghĩa hẹp thì chỉ kinh bộ trong Tam Tạng (kinh, luật, luận), nghĩa rộng thì chỉ sự tập hợp Tam Tạng. Vì nó bao gồm toàn diện và rất phong phú cho nên gọi là “Chúng Kinh”, “Quần Kinh”, “Nhất Thiết Kinh”, chỉ các tạng thánh điển Phật giáo bao hàm ba tạng Kinh Luật Luận. Từ đời Tùy trở về sau mới có tên Đại Tạng Kinh, để gọi sự tập hợp tất cả kinh điển. Đại Tạng Kinh vốn chỉ chỉ cho Hán văn Đại Tạng Kinh. Thời cận đại trở về đây, thêm vào các định ngữ để chỉ cho các kinh điển Phật giáo ngôn ngữ khác, như Tạng văn Đại tạng kinh, Pali ngữ hệ Đại tạng kinh, Tây Hạ văn Đại tạng kinh, Mông (Cổ) văn Đại tạng kinh, Mãn văn Đại tạng kinh, Nhật văn Đại tạng kinh.
Hán văn Đại tạng kinh chia làm hai phần là phần kinh điển phiên dịch và những trước tác Phật học do người Trung Quốc soạn. Phần kinh điển phiên dịch, ngôn ngữ nguyên gốc của nó cũng có phần phức tạp, vừa có các kinh điển Phạm văn, Tạng văn, Pali văn, cũng có các kinh điển từ các ngôn ngữ Trung Á dịch thành tiếng Hán. Phần trước thuật của người Trung Quốc, căn cứ theo bài “Tân biên Hán văn Đại tạng kinh mục lục” của ông Lữ Trừng thì thống kê có 582 bộ, 4172 quyển, bao gồm phần lớn soạn thuật trước đời Đường và những phần soạn thuật quan trọng sau đời Đường, và bao gồm một số soạn thuật của Cao Ly, Tân La, được lưu hành ở Trung Quốc. Thể tài của bộ phận này có chương sớ, luận trước, ngữ luật, sử truyện, âm nghĩa, mục lục, tạp soạn …, là tài liệu quan trọng để nghiên cứu tư tưởng, lịch sử, văn hoá, xã hội Trung Quốc.
I.2.2. Các kỳ kiết tập kinh điển:[2]
Trong thời gian 45 năm (Phật giáo Nam tông) đi khắp nơi truyền giảng giáo pháp, đức Phật đã thu nhận rất nhiều đệ tử xuất gia và cư sĩ tại gia. Ngài đã để lại một kho tàng quí giá gồm nhiều bài thuyết giảng (kinh) cho hàng đệ tử, thường được gọi tổng quát là "tám vạn bốn ngàn" pháp môn. Sau khi Ngài nhập diệt, những lời dạy ấy được các đệ tử tổng hợp lại qua những kỳ kiết tập.
Kiết Tập lần thứ nhất: Ba tháng sau khi đức Phật tịch diệt, một đại hội các vị Tỳ kheo được triệu tập tại vùng đồi núi ngoại thành Vương Xá để tụng đọc lại những lời đức Phật dạy nhằm giữ gìn kho tàng Pháp bảo. Nguyên nhân lần kết tập này là do Tỳ kheo Bạt Nan Đà, một Tỳ kheo bán thế xuất gia khi đã lớn tuổi, vui mừng khi nghe tin Phật Niết bàn, nên Ngài Ca Diếp tập hợp các vị A la hán kết tập lại những lời dạy của Đức Phật, vì sợ những hạng người như Bạt Nan Đà phá hoại chánh pháp.
Kỳ kết tập này do Ngài Ca Diếp chủ tọa. Số người tham dự kết tập là 500 vị A La Hán. Lần kiết tập nầy kéo dài trong 7 tháng, được mệnh danh là ''Vương Xá Thành Kết Tập'' hay ''Ngũ Bách Kết Tập''.
Trong kỳ kiết tập lần này, phần Luật kết tập trước do ngài Ưu Ba Ly trùng tuyên,  được đặt tên là Bát thập tụng luật (Bộ luật được đọc đến 80 lần).
Phần kinh kết tập sau phần luật do ngài A Nan Đà đảm nhiệm. Những kinh dài kết tập thành bộ Trường A Hàm. Những kinh trung bình kết tập thành  bộ Trung A Hàm. Những kinh nói cho nhiều đối tượng kết tập thành bộ Tạp A Hàm. Những kinh lần lượt một pháp tăng dần đến mười một pháp kết tập thành bộ Tăng Nhất A Hàm. Ngoài ra còn bộ Tiểu A hàm tập hợp các kinh nói bao quát nhiều vấn đề.
Kết quả : Lần kết tập thứ nhất nầy, Kinh và Luật đã hình thành.
Kiết Tập Lần Thứ hai:
Đại hội Kiết tập lần thứ 2 sau Phật Niết bàn 100 năm, khoảng năm 383 trước công nguyên được triệu tập tại thành Tỳ Xá Ly, số người tham dự là 700 vị A La Hán. Nguyên nhân: Sau khi Phật nhập niết bàn khoảng 100 năm, Chúng Tỳ kheo Bạt Kỳ, trú tại thành Tỳ Xá Ly (Vesaly) công bố 10 điều luật mới như sau (theo Nam truyền có vài dị biệt).
1. Giác diêm tịnh:Ðồ ăn ướp muối để cách đêm, vẫn ăn được, không trái giới luật.
2. Nhị chỉ tịnh : Tỳ kheo ăn xong, nhận được thức ăn khác, dùng hai ngón tay cầm thức ăn, không trái giới luật. 
3. Tha tụ lạc tịnh  : Trước ngọ tuy ăn rồi nhưng đến làng khác vẫn được phép ăn thêm không trái giới luật.
4.Trụ xứ tịnh : Ở chỗ này nhưng có thể bố tát chỗ khác, không trái giới luật. 
5. Tùy ý tịnh : Quyết nghị đã được đại hội thông qua, dù không đủ số người, đều có giá trị thi hành, không trái giới luật.
6. Sở tập tịnh: Tỳ kheo có thể tiếp tục học tập những tri thức đã học trước khi xuất gia, không trái giới luật.
7. Sinh hòa hợp tịnh : Sữa pha nước ăn sau giờ ngọ, không trái giới luật.
8. Thủy tịnh : Rượu mới lên men pha với nước để uống trị bệnh, không trái giới luật. 
9. Bất ích lũ ni sư đàn tịnh : Dùng tọa cụ không viền, kích thước lớn hơn mẫu định, không trái giới luật.
10. Kim ngân tịnh : Cất giữ vàng bạc, không trái giới luật. 
Bấy giờ Ngài Da Xá thấy thế liền khiển trách các vị Tỳ kheo ở đây, nhưng gặp phải sự chống đối. Ngài Da Xá thỉnh cầu các bậc Cao Tăng ở Ấn Độ thời đó ủng hộ để giải quyết sự việc này, vì thế 700 vị A La Hán từ các miền tập hợp về thành Tỳ Xá Ly để giải quyết các điều này đúng hay sai. Đại hội đưa đến kết luận đây là 10 điều phi pháp.
Những vị cho 10 điều trên là phi pháp đã tách riêng thành Thượng tọa bộ, những vị chủ trương thực hiện 10 điều cải cách thì tách riêng thành Đại chúng bộ.
Kiết tập lần thứ ba:
Sau khi Đức Phật nhập diệt khoảng 218 năm (tức là năm 325 trước Tây lịch), Vua A Dục sùng tín Phật giáo cho nên Phật giáo thời kỳ ấy rất là thịnh hành, vì thế trong hàng ngũ Tăng đoàn trà trộn rất nhiều ngoại đạo làm cho Tăng chúng bất hòa và Phật pháp trở nên hỗn loạn, nên Vua A Dục thỉnh Ngài Mục Kiền Liên Tử Đế Tu triệu tập cuộc họp gồm 1000 vị A La Hán tại thành Hoa Thị (nước Ma Kiệt Đà ) cử hành lần kết tập thứ ba, làm rõ những luận thuyết tà nguỵ trong Phật điển, chỉnh lý Tam Tạng giáo điển. Trong kỳ kết tập này bắt đầu có khái niệm Kinh Luật Luận. Ngài Mục Kiền Liên Tử Đế Tu viết Luận Sự để ghi lại nội dung kỳ kết tập này.
Một truyền thuyết khác: Khoảng năm 200 đến 234 năm sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, hai bộ phái chính là Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ lại sản sinh ra khoảng 20 bộ phái. tùy theo khuynh hướng của mỗi bộ phái mà giải thích giáo lý theo quan điểm của mình, trong đó, một học giả Phật tử khá nổi tiếng là Đại Thiên (Mahadeva), đã đưa ra 5 điều giới hạn của quả vị A la hán (Dư sở dụ, vô tri, do dự, tha linh nhập và đạo nhân thanh cố khởi) đã làm mọi người hoang mang nên vua A Dục của Ấn Độ quyết định ủng hộ triệu tập Đại hội Phật giáo lần thứ ba (lần Kiết tập thứ ba) dưới sự chủ tọa của ngài Mục Kiền Liên Tử Đế Tu  và vua A Dục ủng hộ mạnh mẽ phái Thượng tọa bộ lúc bấy giờ được gọi là Phân biệt thuyết bộ (cha đẻ của Đồng diệp bộ), chính Phái này đã kiết tập 5 bộ Nikàya rất đầy đủ rồi khẩu truyền đến Tích Lan.
Kiết tập lần thứ tư :
Sau Phật Niết Bàn khoảng 400 năm (vào khoảng đầu thế kỷ thứ II sau Tây lịch) tại nước Kiền Đà La có Vua Ca Nị Sắc Ca hết lòng ủng hộ Phật pháp và chính Ngài đề xướng và bảo trợ Đại hội kiết tập kinh điển lần thứ tư được tổ chức tại thành Ca Thấp Di La. Lý do kết tập là vì chư Tăng của các bộ phái có những kiến giải bất đồng về kinh điển, nên mới mở đại hội kết tập. 
Chủ toạ kỳ kiết tập này là Tôn giả Thế Hữu với sự trợ thủ của Hiếp Tôn Giả. Số người tham dự: 500 A La hán.
Trong thời kỳ gần đây, Miến Điện có tổ chức hai kỳ kết tập khác: kết tập lần thứ năm (năm 1870) và lần thứ sáu (năm 1954). Tuy nhiên các kỳ kết tập nầy chỉ để làm sáng tỏ các điểm chính trong kinh, nhưng không thay đổi gì trong bộ Tam tạng. 
CHƯƠNG II: KHÁI QUÁT VỀ KINH PHÁP HOA
II. 1. Sự hình thành và phát phát triễn :
Hầu hết các kinh điển từ Nguyên thủy đến Đại thừa đều có điểm thống nhất rằng: Sau khi Đức Thế Tôn thành đạo, Ngài không vội chuyển vận pháp luân, vì nghĩ rằng: “Giáo pháp do Ngài vừa chứng ngộ quá thâm diệu, cao quý, siêu lý luận, chỉ có kẻ trí mới thấu hiểu, còn đa số quần chúng thì đam mê ái dục, chạy theo ái dục, khó mà thấy được nguyên lý duyên khởi, nguyên lý tịch tịnh của các hành”.
Phạm thiên Sahampati đọc được luồng sinh khí ấy, nên đã xuất hiện trước Đức Thế Tôn, thỉnh cầu Ngài chuyển vận pháp luân.
Bấy giờ, Đức Phật nhìn hồ sen, thấy sen trong hồ có thứ đã lên khỏi bùn, nhưng chưa lên khỏi mặt nước, có thứ đã lên khỏi mặt nước, nhưng chưa nở hoa, có thứ chỉ hé nụ sắp sửa nở,… Đức Phật liền nghĩ: “Hết thảy chúng sanh ở nơi thế giới này cũng đều như thế. Có người trình độ thấp, có người trình độ vừa, có người trình độ cao, nhưng tất cả trình độ ấy nếu gặp được giáo lý do Ngài giảng dạy, họ cũng sẽ tu tập và được giải thoát, giác ngộ”[3].
Chính suy nghĩ về điểm này, mà Đức Như Lai thiết lập phương tiện để giáo hóa, như Ngài đã nói ở phẩm Phương Tiện kinh Pháp Hoa.
Hiện nay có nhiều bản Phạn ngữ Kinh Pháp Hoa được tìm thấy từ Tây Tạng, Népal, Kotan… Đại Tạng Hán ngữ nay còn 03 bản. Bản của ngài La Thập dịch thì được ưa chuộng hơn và phổ biến hơn. Ngoài bản dịch ra Hán ngữ còn các bản dịch khác của Mông Cổ, Mãn Châu, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam rất phong phú. Sự nghiên cứu và lưu truyền Kinh Pháp Hoa rất sâu rộng, ở Ấn Độ ngài Long Thọ (Nagarjuna) khi trứ tác Đại Trí Độ Luận đã dẫn chứng Kinh Pháp Hoa và Ngài có một tác phẩm giải thích Pháp Hoa là Pháp Hoa Thích Luận. Ngài Thế Thân, một Luận sư nổi tiếng có lược dịch và giải thích Pháp Hoa qua bộ Pháp Hoa Luận. Ở Trung Hoa, những bản chú giải, sớ giải về Pháp Hoa của các nhà nghiên cứu Phật học qua các thời đại rất nhiều, nổi bật là Trí Giả Đại sư (538) của tông Thiên Thai với các tác phẩm nổi tiếng như Pháp Hoa Huyền Nghĩa, Pháp Hoa Văn Cú, Ma Ha Chỉ Quán v.v…
Kinh Pháp Hoa đóng một vai trò quan trọng không những ở Ấn Độ mà còn ở Trung Hoa, Nhật Bản và các nước theo truyền thống Đại thừa. Chưa có công trình nào đánh giá hết được tác dụng của kinh đối với xã hội nhân sinh ở các nước trên đến mức nào.
 II. 2. Nội dung kinh pháp hoa.
Diệu pháp liên hoa kinh( Saddharmapuṇḍarīka-sūtra), cũng được gọi ngắn là kinh Pháp hoa, là một trong những bộ kinh Đại thừa quan trọng nhất, được lưu hành rộng rãi ở Trung QuốcNhật BảnTây Tạng và Việt NamTông Thiên Thai lấy kinh này làm giáo pháp căn bản. Kinh này chứa đựng những quan điểm chủ yếu của Đại thừa Phật giáo, đó là giáo pháp về sự chuyển hoá của Phật tính và khả năng giải thoát. Kinh này được Phật giảng vào lúc cuối đời, được kết tập trong khoảng năm 200.
Kinh này được Phật giảng trên đỉnh Linh Thứu cho vô số người nghe gồm có nhiều loài khác nhau. Trong kinh này, Phật chỉ rõ, tuy có nhiều cách để giác ngộ, nhưng chúng chỉ là phương tiện nhất thời và thực tế chúng chỉ là một. Các phương tiện khác nhau như Thanh Văn thừa, Độc Giác thừa hay Bồ Tát thừa thật ra chỉ khác nhau vì phải cần phù hợp căn cơ của hành giả. Phật chỉ tuỳ cơ duyên, sử dụng các Phương tiện (sa. upāya) mà nói Tam thừa nhưng thật chất chỉ có Phật thừa (sa. buddhayāna) – nó dẫn đến Giác ngộ, bao trùm cả Đại thừa lẫn Tiểu thừa. Quan điểm này được làm sáng tỏ bằng ẩn dụ, trong đó một người cha muốn cứu những đứa con ra khỏi một cái nhà đang cháy. Vì những đứa trẻ không chịu nghe lời chạy ra khỏi nhà, người cha đành phải hứa với mỗi đứa cho một món quà tuỳ ý thích của chúng, đứa thì được con nai, con , xe trâu... để chúng chịu ra ngoài.[4]
Bộ kinh này được rất nhiều người trên thế giới tán ngưỡng. Mỗi người tùy theo căn cơ và trình độ của mình mà cảm nhận và lý giải kinh theo những cách khác nhau. Ngài Thế Thân cho kinh này là tối thượng thừa vì nó vượt lên trên các kinh và là mục tiêu của tam thừa. Ngài Trí Giả đại sư cho rằng kinh này là một pháp mầu nhiệm có thể thống nhiếp tất cả các Pháp. Ngài Nhật Liên Thánh Nhân cho rằng kinh này là môn đà la ni, người tu chỉ cần niệm tên kinh là tiêu trừ tất cả tội chướng và thành vô thượng bồ đề.[5]
Vào đầu thế kỷ 19, công sứ người Anh, ông Hamilton tìm thấy ở Nepal một bộ kinh Pháp Hoa bằng chữ Phạn được viết trên lá bối, sau đó có 19 bản khác chép tay bằng Phạn ngữ được phái đoàn người Anh, Pháp, Đức tìm thấy. năm 1932 một bộ kinh Pháp Hoa cổ được tìm thấy ở vùng Kashmir nối liền với Afghanistan (Pháp Hoa Gilgit) được viết bằng ngôn ngữ Maghadhi. Nhìn chung Kinh Pháp Hoa được hệ thống và kiết tập 100 năm trước Tây lịch, Ngài Long Thọ trong bộ Đại Trí  Độ  luận của mình đã dùng kinh này để thuyết minh thuyết Trung đạo, Ngài Thế Thân không những dẫn dụng kinh pháp hoa trong bộ Nhiếp Đại Thừa Luận mà còn soạn ra bộ Pháp Hoa luận để làm nền tảng cho các chú giải về sau.
Kinh này còn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Tín tâm trên bước đường giải thoát. Sau khi Phật giảng tới đó thì các vị Phật và Bồ Tát tuyên bố hỗ trợ kẻ tu hành để tăng phần tín tâm. Một phẩm quan trọng của kinh này với tên Phổ môn (phẩm 25) được dành cho Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong phẩm này, vị Bồ Tát này nói rất rõ sự hộ trì của mình dành cho người tu học kinh Pháp hoa. Phẩm Phổ môn này được Phật tử Trung Quốc và Việt Nam đặc biệt ưa thích và tụng đọc. [6]
Trong kinh này, Phật không còn được xem là vị Phật lịch sử nữa mà là dạng xuất hiện của Pháp thân (sa. dharmakāya, xem Tam thân), là thể tính đích thật của muôn loài. Mỗi chúng sinh đều xuất phát từ dạng chuyển hoá này của Phật tính và vì vậy đều có thể trở về với chân tính của mình, trở thành một vị Phật.
Thông thường, nội dung Kinh Pháp Hoa được giới thiệu trình bày qua hai hình thức :
    a). Giới thiệu kinh qua chủ đề "Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến" : Phẩm Tựa trình bày tổng quát hiện tượng và bản thể của vũ trụ pháp giới. Phẩm 2 đến phẩm 10 mở bày cái thấy biết của Phật. Phẩm 11 đến 22 chỉ cho thấy chỗ thâm áo của Phật tri kiến. Phẩm 23 đến 28 nói về thể nhập Phật tri kiến.
b). Giới thiệu kinh qua khái niệm về Tích môn và Bổn môn của tông Thiên Thai. Kinh Pháp Hoa chia làm 2 phần : 14 phẩm đầu thuộc Tích môn, 14 phẩm sau thuộc Bổn môn.
    Phần Tích môn chia làm 3 phần : Dẫn nhập, chánh tông và kết luận. Phẩm 1 là dẫn nhập, phẩm 2 đến phẩm 9 là chánh tông, phẩm 10 đến 14 là kết.
Phần Bổn môn cũng chia làm 3 phần như trên. Nửa đầu phảm 15 là phần dẫn nhập (có nơi cho rằng phẩm 1 là phần dẫn nhập cho cả 2 môn). Nửa phần sau của phẩm 15 đến phẩm 16 và nửa đầu phẩm 17 là phần chánh tông, nửa sau của phẩm 17 cho đến phẩm 28 là phần kết.
Phần Tích môn là phần giáo lý của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni có sanh ra, lớn lên, xuất gia, thành đạo, nhập diệt, dạy giáo lý thoát khổ ở cõi thế gian này. Trong kinh, phần nào thuyết pháp ở núi Linh Thứu thì thuộc về Tích môn, còn gọi là Chân lý tương đối.
Phần Bổn môn là phần gốc, là nền tảng của Tích môn. Nghĩa là Đức Phật đã thành Phật từ vô lượng kiếp. Phật hiện hữu suốt chiều dài của thời gian và phổ biến cả không gian. Chân lý của Bổn môn là tuyệt đối. Nhờ giáo lý Bổn môn mà lý giải tất cả chúng sanh đều thành Phật, vì tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. Đây là điểm đặc thù của Pháp Hoa.

    CHƯƠNG III: NHỮNG NÉT VĂN HỌC ĐẶC SẮC QUA “THẤT DỤ” TRONG KINH PHÁP HOA:
 III.1  Vài nét về tính Văn học  Hán tạng Phật điển:
Văn học là một hình thái ý thức xã hội, gắn liền với xã hội cụ thể. Do đó, văn học một dântộc phải gắn liền với lịch sử dân tộc ấy. Văn học Trung Quốc cũng vậy, cuộc sống và con người Trung Quốc đã phản ánh trong văn học Trung Quốc hay nói đúng hơn cuộc sống và con người Trung Quốc đã in dấu ấn trong nền văn học. Văn học không chỉ là tấm gương phản chiếu đời sống, mà là hình bóng của đời sống gắn liền với lịch sử trong quá trình phát triển của mình.
Như trên đã nói kinh điển được lưu truyền đến Trung Quốc đã trải qua quá trình phiên dịch, dịch giả vì sự hạn chế hoặc vì phong cách, quan điểm, hoàn cảnh, ngôn ngữ, lãng thổ v.v… của mỗi người khác nhau, nên mỗi bộ kinh được rất nhiều dịch giả phiên dịch để lưu truyền đến khắp nơi trên thế giới thông qua nhiều thời đại. Trong đó kinh Pháp Hoa là bộ kinh được thế giới công nhận là một tác phẩm văn học kiệt tác. Trong kinh văn sử dụng nghệ thuật văn vần, tản văn, câu chuyện, tục giảng, biến văn, ngữ lục, truyền ký v.v…. đều là hình thức văn học ưu mỹ, do đây có thể nói Phật giáo đã mang lại cho nền văn học một ý cảnh mới, loại văn thể mới và phương thức khiển từ mới
Vận tán kết hợp: Ngôn ngữ thường bất lực trước thực tại, tuy vậy theo Ngài Cưu Ma La Thập “bất kỳ văn tự nhi thuyết thực xướng” nghĩa là không lìa văn tự danh ngôn mà diễn bày được thực tướng của các pháp. Như vậy nghĩa là phải có một ngôn ngữ nào đó khả dĩ giúp con người nắm bắt được thực tại mà không bị kẹt ở ngôn ngữ, thấy rõ mặt trăng mà không chấp vào ngón tay[7].
 Biểu tượng là biểu tượng về một cái gì khác nó, chứ không phải là về chính nó như nói Hoa sen là biểu tượng cho một vị Phật, nói đến Hoa sen, người ta nghĩ ngay đến những đặc tính của nó:
Mọc trong bùn nhưng không bị ô nhiễm mùi bùn. Trải qua thời gian, Hoa sen dù như thế nào vẫn nở tròn đầy. Trong hoa có nhụy, đài, gương, hạt…biểu thị nhân quả đồng thời. Những đặc tính ấy của Hoa sen biểu thị cho Phật tính của mỗi con người. Ý nghĩa của nó như sau:
Sự giác ngộ giải thoát nằm trong sự trầm luân sanh tử, lìa đời không có giải thoát, lìa bùn không có Hoa sen.
 Dù thời gian tu tập có dài xa, mỗi con người đều sẽ trở thành vị Phật, như lời Phật đã nói “ Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”
 Trong một bản thể tâm vốn chứa đầy mỗi đức tính, như tất cả chủng tử nằm sâu trong chiều sâu tàng thức.
Trên cơ sở ấy, Hoa sen trở thành chủ đề trung tâm của toàn bộ kinh Pháp Hoa, cũng như biểu tượng đặc thù trong Kinh tạng Phật giáo. Ngôn ngữ  biểu tượng là ngôn ngữ mang đầy màu sắc hình ảnh. Điều này có thể được xem là hiện tượng luận. Kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm có thể được xem là hình thức của hiện tượng luận
 III.2. Những nét văn học đặc sắc trong “Thất Dụ”
Như trên đã nói kinh điển được lưu truyền đến Trung Quốc đã trải qua quá trình phiên dịch, dịch giả vì sự hạn chế hoặc vì phong cách, quan điểm, hoàn cảnh, ngôn ngữ, lãng thổ v.v… của mỗi người khác nhau, nên mỗi bộ kinh được rất nhiều dịch giả phiên dịch để lưu truyền đến khắp nơi trên thế giới thông qua nhiều thời đại. Trong đó kinh Pháp Hoa là bộ kinh được thế giới công nhận là một tác phẩm văn học kiệt tác. Trong kinh văn sử dụng nghệ thuật văn vần, tản văn, câu chuyện, tục giảng, biến văn, ngữ lục, truyền ký v.v…. đều là hình thức văn học ưu mỹ, do đây có thể nói Phật giáo đã mang lại cho nền văn học một ý cảnh mới, loại văn thể mới và phương thức khiển từ mới.
Trong kinh Pháp Hoa đưa ra 7 ví dụ cấu thành chủ thể diễn thuyết ví dụ của kinh. Chúng ta đưa ra vài ví dụ tiêu biểu:
Dụ nhà lửa.[8] Nói về vị trưởng giả nhìn thấy  người con của mình  vui chơi trong nhà lửa không chịu ra khỏi. Vì muốn thốt khỏi nh lửa nguy hiểm nn trưởng giả nói bên ngoài có những món đồ chơi rất vui như xe dê, xe hươu và xe trâu. Bọn trẻ nghe nói bên ngoài có các đồ chơi đều tranh nhau chạy ra khỏi nhà lửa. Vị trưởng giả bèn cho chúng mỗi người một chiếc xe trâu thất bảo. Nhân đó nói r php mơn tam thừa v nhất thừa cho chng nghe. Đây là một câu chuyện thú vị, vừa biểu đạt được giáo nghĩa thâm sâu trong Phật giáo, ông trưởng giả dụ cho đức Phật, nhà lửa dụ cho biển khổ tam giới, những đứa con dụ cho tất cả chúng sanh trong thế gian, ba xe dụ cho ba hàng Thánh chúng. Câu chuyện dẫn dụ này tuy ngắn ngủi nhưng văn từ dùng rất ưu mỹ, ý tứ linh động.
Dụ thứ 2 nói về chàng cùng tử trong phẩm tín giải.[9] Phẩm này trọng tâm đức Phật vì muốn gio hĩa chư đệ tử thật sự lnh hội ý chỉ của mình nn bước đầu dụ dẫn cho hàng đệ tử tu pháp tiểu thừa - đưa ra những pháp môn diệt trừ phiền não, dần dần chuyển sang pháp đại thừa - đưa ra pháp môn tam thừa hợp nhất. Dùng hình ảnh vị trưởng giả và các con của ông để dụ cho Phật và hàng nhị thừa. Ngài đưa ra hình ảnh  Cùng Tử thất lạc từ nhỏ lưu lạc nơi tha hương, sống đời nghèo khổ, vì mưu cầu sự sống đ tìm trở về quê hương mình, một hơm lưu lạc đến ăn xin trong ngôi nhà giàu có của cha mình. Người cha nhận ra con mình, chng cng tử nhìn thấy ông trưởng giả có thế lực lớn mạnh, sợ hãi trốn đi, người cha cho người đuổi theo, người con sợ quá ngất xỉu, người cha chỉ đành để con ra đi. Ông trưởng giả vì muốn tìm cách dụ con mình trở về, nên đã cho người thuê con làm mướn, lâu ngày thân cận, biết con mình đã thuần thục, đến lúc lâm chung ông tuyên bố với mọi người người ấy chính là con ông, cho con nối nghiệp gia sản của mình, chúng cũng tử mới chấp nhận vô cùng mừng rỡ. Đức Phật vì biết chúng sanh căn tánh thấp kém, nên đã dụng tâm dùng phương tiện điều phục khiến cho chúng thể nhập được chân lý cứu cánh. Trong phẩm này dùng thể loại trường hành và trùng tụng, văn từ trong kinh rất ưu mỹ, khắc họa tình tiết khác chiết, tỉ mỉ, bút pháp tự sự rất là uyển chuyển lưu loát, thông đạt, khiến người đọc thấy tình huống gần với cuộc sống thật của mình.
Dụ thứ 3 dược thảo dụ.[10] Phẩm này trọng trâm đức Phật nói pháp tuy có nhị thừa, tam thừa, nhưng đến chỗ cứu cánh duy chỉ có nhất thừa. Trong phẩm này đức Phật dùng các loại cây cối và thảo mộc có tánh chất nên thuốc, ví cho ba hạng người có căn tánh bậc thượng, bậc trung và bậc hạ. Đó là Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ-tát. Ngoài ra chỉ có các loại cây lùm rừng tức loại cây thuốc, để nói lên ý nghĩa sự hưởng thụ nước của một trận mưa bình đẳng của một số giống loại cỏ cây, nhưng là cỏ cây vô dụng thì khơng hấp thụ được hết tác dụng của nước. Điều này để nói lên rằng do sự hấp thụ của từng loại cây cối mà giá trị trưởng dưỡng khác nhau, nước mưa từ một vầng mây tuôn thì chỉ có một tánh đượm nhuần. Cũng vậy đức Phật thuyết pháp bình đẳng, thật lý mà nói chỉ có một Phật thừa. Trong những kinh điển thường được xem là pháp tiểu thừa vẫn có mầm đại thừa, tối thượng thừa trong đó. Tùy trí huệ nhận thức của từng căn tánh, từng đối tượng mà thấy có hoặc không, giống như cùng nhìn một bầu trời cảnh vật ngy xun, thấy quang cảnh đẹp hồng hay ảm đạm là tùy cặp mắt kính hồng hay đen mà mình đang mang trên mắt. Từ đó cho thấy tất cả giáo pháp của Như Lai chỉ có một tướng đó là tướng giải thoát và giác ngộ.
Dụ thứ 4 là hóa thành.[11] Đây là một phương pháp phương tiện quyền nghi để hóa độ. Ngài dùng hình ảnh một vị thầy thơng minh dẫn dắt đoàn người đi tìm chu bu, biết đoạn đường đến phải trải qua trắc trở, gian nan, nguy hiểm. Giữa đường mọi người mệt mỏi, chán nản vì sợ nguy hiểm nửa đường thối chí không muốn đi nữa. Vị hướng đạo bền tâm quyết chí dùng sức phương tiện giữa đường hĩa hiện ra một thành trì để mọi người vào nơi ấy ngơi nghỉ. Sau khi nghỉ dưỡng đủ đầy sức khỏe, thành trì biến mất, ngài liền nói với mọi người kho trân báu gần đến rồi, khuyên mọi người cố gắng đi thêm một đoạn đường nữa. Nhân đây đức Phật nói rõ vì sao trước ngài phải dùng phương tiện nói pháp tiểu thừa, sau mới thuyết pháp đại thừa. Chúng ta thấy nội dung câu chuyện rất ngắn nhưng dùng hình tượng rất sinh động, ý thú rất phong phú, tự nhiên. Tác phẩm không chỉ trọng tình tiết nhưng lại truy cầu hình tượng thuyết lý thấu triệt, tinh xảo, khiến người đọc có một ấn tượng sâu sắc.
Y châu dụ (hay Hệ châu dụ - phẩm Ngũ bách đệ tử thọ ký)[12]: Có kẻ đến nhà bạn thân, say rượu nằm ngủ. Người bạn sắp đi việc công, nên đem viên ngọc vô giá buộc vào áo trong của người ấy. Người ấy ngủ say, không hay biết gì cả. Tỉnh dậy thì lang thang đến xứ khác, làm ăn rất cực nhọc, và kiếm được chút ít tự cho là đủ. Về sau người bạn gặp lại, thấy mà phải kêu lên, sao anh đến nông nỗi này. Trước đây muốn cho anh vui thú nên tôi đã đem viên ngọc vô giá buộc vào áo trong của anh, nay đang còn kia. Sao anh không biết để phải tự kiếm sống khó nhọc. Anh thật khờ dại, hãy đem viên ngọc ấy đổi lấy những thứ cần dùng, thì không còn thiếu thốn gì nữa. Đức Thế Tôn cũng vậy. Khi Ngài làm Bồ tát, đã gieo vào mỗi chúng ta chí nguyện tối thượng, chí nguyện cầu tuệ giác của Bậc Toàn giác. Nhưng chúng ta quên ngay, không hay biết gì hết. Được tuệ giác La hán là tự cho đã Niết bàn, như kẻ kiếm sống cực nhọc, có được chút ít tự cho là đủ. Trong khi đó chí nguyện nói trên vẫn còn y nguyên. Đến khi được Đức Thế Tôn thức tỉnh, chúng ta mới hay rằng cái mà chư vị Thanh văn, Duyên giác, ngay cả Bồ tát đạt được cũng chưa phải là Niết bàn. Nhưng qua đó, chúng ta cũng nhận ra rằng trong mỗi chúng sanh đều có tánh giác, đều có hạt châu vô giá, đó chính là Phật tâm, là sự sáng suốt vô ngại.
Kế châu dụ (hay Đảnh châu dụ - phẩm An lạc hạnh)[13]: Vị luân vương hùng cường nọ muốn sử dụng uy thế làm cho các nước khác thuần phục. Nhưng các quân vương không tuân lịnh. Luân vương phải động binh chinh phạt. Thấy chiến sĩ ai có công thì luân vương mừng, tùy công mà thưởng bằng cách ban cho đủ thứ cần dùng và hiếm có. Chỉ viên ngọc sáng trong búi tóc thì không đem cho, vì chỉ trên đỉnh đầu của luân vương mới nên có viên ngọc sáng ấy. Cho đến khi chiến sĩ lập được chiến công vô cùng hiển hách, nhà vua lúc bấy giờ mới đem viên minh châu trên đầu mình mà ban tặng.
Đức Như Lai cũng như vậy. Nhờ sức mạnh của thiền định và trí tuệ, Như Lai làm vua “nước pháp”, thống trị ba cõi. Vì ma vương không quy phục nên Như Lai mới dùng Hiền Thánh làm tướng để đánh ma vương. Đối với các bậc hữu công trong trận chiến này, Pháp vương Như Lai ban cho cái quý báu của thiền định, giải thoát, vô lậu, ban cho thành quách Niết bàn để dẫn dắt tâm họ, khiến mọi người hoan hỷ, nhưng Như Lai chưa vì họ mà nói kinh Pháp Hoa. Chỉ đến khi “quân đội” Hiền Thánh dẹp trừ được ma năm ấm, ma não phiền, ma ba độc, phá lưới ma ba cõi... Pháp vương mới ban cho kinh Pháp Hoa, là lời thuyết giáo cao cả nhất của Đức Như Lai.
Y sư dụ (hay Y tử dụ - phẩm như lai thọ lượng[14]): Thí như vị thầy thuốc hay, trí tuệ thông đạt, luyện rành các phương thuốc. Ông thầy thuốc đó có nhiều con. Vì có duyên sự, ông đi sang nước khác, những đứa con của ông ở nhà uống phải thứ thuốc độc làm cho tâm sầu muộn, mê man, rối loạn, vật vã trên đất. Bấy giờ người cha từ nước khác trở về, thấy những đứa con bị trúng độc, có đứa mất cả bản tâm, có đứa không mất bản tâm, thấy cha về thì mừng rỡ, xin cha cứu giúp. Người cha thương con, bèn chế thuốc hay đưa cho các con uống. Những đứa không mất bản tâm, nghe lời cha uống thuốc thì được bình phục. Còn những đứa mất bản tâm, tuy thấy cha đến cũng biết thưa hỏi, cũng muốn chữa bệnh, nhưng khi cha đưa thuốc lại không chịu uống. Bởi lẽ chất độc đã ngấm sâu, làm mất bản tâm, cho nên đối với những thứ thuốc hay, chúng không cho là tốt. Vị lương y bèn nghĩ ra phương tiện giúp các con uống những thứ thuốc hay đó, bèn bảo: Ta đã già rồi, ngày chết sắp đến nơi, thứ thuốc hay đó ta nay để đây các ngươi tự lấy uống, chớ lo không lành. Xong, ông trở về nước khác, sai sứ trở về bảo rằng cha các người đã chết. Những người con nghe vậy thương nhớ vô hạn, nghĩ đến tấm lòng và phương thuốc của cha cho, liền lấy ra uống và lập tức khỏi bệnh. Người cha biết các con đã chịu uống thuốc và lành bệnh, liền trở về cho chúng thấy mặt. Ở đây, vị lương y chính là Phật, các người con điên đảo chỉ cho chúng sanh. Như Lai thành Phật đến nay đã vô lượng kiếp, chỉ vì cứu độ chúng sanh mà phương tiện tuyên bố nhập diệt. Nhưng không phải Như Lai nói dối. Phật thấy biết chúng sanh ai đang đi theo đường chánh và ai đang lạc vào nẻo tà, nên biết tùy trường hợp mà hóa độ. Nhờ vậy mà Đức Phật có thể cứu độ chúng sanh. Đó chính là phương tiện thuyết pháp và hóa độ của Như Lai, rằng Như Lai nhập diệt nhưng kỳ thực không phải nhập diệt.
Tác phẩm văn học thường đứng ở lập trường chắc chắn phản ảnh cuộc sống xã hội đương thời để biểu hiện những quan niệm tư tưởng đặc biệt. Dựa trên quan điểm đó, chúng ta thấy rất rõ kinh Pháp Hoa được xem là một tác phẩm văn học tôn giáo điển hình, bởi vì đặc điểm nội dung tư tưởng của kinh chủ yếu đã biểu hiện được sự cố gắng điều hịa sự xung đột mâu thuẫn giữa nội bộ Phật giáo với nhau. Như chúng ta thấy trong kinh đã phản ảnh được sự xung đột kịch liệt sự mâu thuẫn sâu sắc giữa Phật giáo đại thừa và tiểu thừa.
Đức Phật ngay phẩm đầu tiên đưa ra câu chuyện biểu hiện sự mâu thuẫn như sau: Khi đức Phật chuẩn bị diễn thuyết pháp môn đệ nhất nghĩa đế khó hiểu, khó tin, hiếm có, ngay hội trường lúc bấy giờ đã có hơn 5000 tứ chúng bỏ ra khỏi hội trường, sau đó có rất nhiều phái ngoại đạo bàn tán phê phán phỉ báng, cho rằng đó chẳng phải là chánh tín, là ngụy thuyết v.v…
Điều mâu thuẫn thứ hai trong phẩm Đề Bà Đạt Đa, đức Phật đã vạch ra cho chúng ta thấy sự mâu thuẫn giữa đức Phật và Đề Bà Đạt Đa có nhiều quan hệ, ân oán trong nhiều đời nhiều kiếp, nhưng cuối cùng ngài vẫn thọ ký Đề Bà Đạt Đa sau này sẽ thành Phật hiệu Thiên Vương.
Điều mâu thuẫn thứ ba đức Phật đã nêu ra sự mâu thuẫn giữa Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, ngài đã thọ ký cho bà Di Mẫu, Da Du Đà La và tám ngàn Tỳ kheo ni tương lai sẽ thành Phật. Kế đến là hình ảnh Long Nữ thành Phật trong khoảnh khắc, để khẳng định cho mọi người biết rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh và có thể thành Phật.
Những ví dụ trên tuy đặt nặng vào phương pháp Phật giáo, mục đích cuối cùng để họ tu chứng đạo quả, chủ yếu là vì muốn lợi ích cho chúng sanh, chú trọng tính thích ứng của Phật pháp, tính hiệu quả, dùng phương tiện tùy cơ giáo hóa chúng sanh khiến họ được giải thoát phiền não khổ đau. Tuy Ngài dùng vô số phương pháp khác nhau, nhưng tất cả đều là nền tảng căn bản của Phật pháp, đều kết hợp tri thức giáo nghĩa kinh nghiệm thực tiễn làm trung tâm, đây chính là nét đặc sắc dùng ví dụ để khuyến hóa chúng sanh trong kinh Pháp Hoa.
Đức Phật tự thân chính là một vị truyền giáo kiệt xuất, có thiên tài về văn học. Ngài ngộ đạo hoàn toàn dựa vào sức mình tu chứng, sau đó thuyết pháp, thành lập giáo đoàn tăng chúng, mỗi mỗi việc làm đều mang sắc thái văn học, tức dùng thí dụ làm phương châm khuyến nhắc, dùng ví dụ để gợi nhắc cho mọi người biết rằng mỗi người đều có Phật tánh. Trong mỗi ví dụ sử dụng đều có sự sai khác, hình ảnh chĩ những trình độ lớn nhỏ, ngắn dài, nhiều ít tương phản lẫn nhau, nhân duyên giáo hóa cũng tùy cơ thích nghi ứng phó với hạng trung, hạ căn v.v…, tức đối với hạng độn căn thì dùng thí dụ nói pháp, quan điểm này ngay thời đại Bồ-tát Long Thọ đã ứng dụng. Nhưng đặc điểm của kinh này, đức Phật dùng ví dụ để thuyết minh cho hạng trí tuệ đệ nhất như ngài Xá Lợi Phất.
III.3. Bài học về “Thất Dụ” trong đời sống hiện thực:
Trong phẩm “Hóa Thành Dụ” Kinh Pháp Hoa đưa ra hình ảnh : “Pháp Hoa hải hội Đức Phật phân thân, tuyên ba châu chín dụ nghĩa nhiệm mầu…” ở đây ám chỉ phần thuyết pháp thọ ký cho hàng thượng căn thượng trí, chỉ có ngài Xá Lợi Phất mới có thể tiếp nhận được chân lý, tiếp nhận được quy luật sinh tồn diễn tiến từ bản thể khởi ra hiện tượng và từ hiện tượng trở về bản thể. Cuộc sống của hàng phàm phu quá khổ, Đức Phật mặc dù Ngài vẫn thị hiện cuộc sống như ta nhưng thực chẩt Ngài không rời khỏi Niết Bàn. Từ đó ta thấy mọi thể hiện và sinh hoạt của Đức Phật thật giản dị nhưng lại có tác dụng lớn lao đến đời sống của chúng ta. Chính vì thế mà trãi qua hơn 25 thế kỷ, lời dạy và việc làm của Ngài vẫn luôn là lý tưởng cho hàng tỉ người tôn thờ và noi theo.
Nếu căn cứ trên năm yếu tố[15] mà Austin Wanen và Rena Wellek cho rằng đó là nguyên tắc để khẳng định một tác phẩm là tác phẩm văn học hay phi văn học, thì Pháp Hoa là một tác phẩm thuộc hệ văn học đại thừa Phật giáo, là  văn học vượt ra khỏi những khái niệm thông thường của các tác phẩm văn học quy ước.
Trong các phẩm trước, đức Phật đã dùng cách “pháp thuyết châu và dụ thuyết châu”. Đến phẩm Hóa Thành Dụ,  Đức Phật dùng thêm “nhân duyên thuyết châu” nữa gọi là Tam châu thuyết pháp. [16]
Xuyên suốt những thí dụ trên là những lời giáo huấn tha thiết của Đức Như Lai. Tất cả phương tiện thiện xảo của Ngài mục đích cũng là để cho chúng sanh thấy tam giới là nhà lửa, chúng sanh, thậm chí là hàng Thanh văn, Duyên giác là những kẻ cùng tử, những kẻ có chút ít tự cho là đủ. Chúng sanh dù căn cơ siêu việt hay thấp kém, hạ liệt cũng đều từ một cõi đất mà ra, cũng đều có cùng một quê hương xứ sở. Nhưng chúng sanh hầu như quên mất nguồn gốc cao quý của mình, lang thang trong ba cõi khổ đau bất tận. Một trận mưa pháp của Như Lai rưới xuống thấm nhuần một vị giải thoát, nhưng tùy theo căn tánh mà mỗi người tiếp nhận khác nhau. Chúng sanh nói chung cũng như hàng Thanh văn, Duyên giác, đang tiến lên trên con đường giác ngộ trở về bảo sở dài dằng dặc.   Dường như ai nấy cũng đều mệt mỏi. Đức Thế Tôn bèn phương tiện hóa ra thành quách cho mọi người nghỉ ngơi. Vậy mà không ít kẻ tự nghĩ rằng mình đã đến được nơi cần đến, đã đạt được mục đích tối hậu. Trong mắt của Như Lai, chúng sanh thật đáng thương. Chúng sanh là những kẻ có sẵn châu ngọc mà không biết đem ra sử dụng. Đức Phật là đấng cha lành, là một vị lương y cho thuốc hay, có thể cứu chúng sanh thoát khỏi tam độc hành hạ đau khổ.
Mặc dù có vị thuốc hay Như Lai ban tặng, nhưng chúng sanh không phải ai cũng chịu uống; kẻ đánh mất bản tâm, không biết đây là vị thuốc hay nên không chịu uống đã đành, ngược lại, có kẻ tuy biết thuốc hay nhưng còn mê muội, lười biếng mà không chịu uống. Những ai tinh tấn diệt trừ được ma chướng một cách oanh liệt, tiếp nhận và tu tập giáo pháp Như Lai để đạt được mục đích tối hậu, những người đó mới xứng đáng nhận viên minh châu vô giá của Đức Như Lai.
Rõ ràng, Đức Phật muốn chỉ dạy cho chúng ta một điều: cần phải có niềm tin cho con đường giải thoát; nhưng không phải niềm tin thông thường, mà tin vào mình, vào chính khả năng thành Phật của mình để tự tin vứt bỏ tấm áo kẻ hốt phân, khoác vào mình tấm áo trưởng giả với một gia tài đồ sộ - gia tài Chánh pháp của Như Lai. Có như vậy chúng ta mới không hổ thẹn khi tự xưng mình là Thích tử.
Một tác gia Trung Quốc nói: Chúng ta cần chú ý phương thức giải thích về lý nhân duyên trong kinh Phật, đức Phật đã dùng những câu chuyện để thuyết minh nghĩa lý, vì ngài cho rằng con người và vạn vật đều do nhân duyên hòa hợp với nhau mà thành, đồng thời kế thừa và phát huy tư tưởng nghiệp báo luân hồi, vì thế ngi thường dùng những nhân duyên đời trước để nói rõ mối quan hệ đến kiếp nhân sanh hiện đời. Do vậy chúng ta thấy trong kinh Phật thường biên soạn những câu chuyện phần lớn nói đến mối quan hệ
III.3.1. Đối với tự thân trong tu tập 
Chính vì kinh Pháp Hoa là bộ kinh có thể chữa lành mọi căn bệnh chúng sanh, như người nghèo được của báu, như người rách được y phục, như người bệnh gặp thuốc hay nên chúng ta phải thọ trì kinh Pháp hoa, đọc tụng kinh Pháp Hoa hàng ngày và truyền bá kinh Pháp hoa.
Để hiểu và thọ trì kinh Pháp Hoa thì hàng ngày hành giả phải đọc tụng và thường xuyên chiêm nghiệm ý nghĩa thâm diệu của kinh Pháp Hoa. Khi hiểu kinh Pháp Hoa rồi, hành giả phải thọ trì Pháp Hoa. Nghĩa là hành giả thọ nhận lời Phật dạy và thực hành lời dạy ấy trong đời sống tu tập. Chúng ta phải biết rằng chúng ta như người cùng tử trôi dạt trong sanh tử luân hồi, trí tuệ nghèo nàn, phước đức hèn kém, có kho tàng báu Phật thừa trong tâm mà không biết, có viên ngọc tuệ giác bên trong mà không hay lại nhọc nhằn khổ sở, an phận với chút ít của cải nhỏ nhoi của mình. Nay chúng ta gặp Pháp Hoa, chúng ta phải làm sao làm tỏ rạng tuệ giác, sử dụng được kho báu Phật thừa trong tâm, đó mới chính là một hành giả pháp hoa. Chúng ta không chỉ thọ trì đọc tụng kinh Pháp Hoa mà chúng ta phải truyền bá kinh này bằng cách in chép truyền bá rộng rãi để mọi người có đủ sách kinh mà hành trì, rồi mở đạo tràng Pháp Hoa, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho Phật tử đến đọc tụng, nghe pháp và hành trì Pháp Hoa. Nhưng có lẽ việc quan trọng hơn hết của một hành giả Pháp Hoa là thuyết giảng Kinh Pháp Hoa. Vì việc thuyết giảng kinh Pháp Hoa sẽ giúp cho mọi người tiếp nhận được ý nghĩa thâm sâu huyền diệu của kinh, mà nếu không có người thuyết giảng ắt hẳn nghĩa lý thâm huyền này làm sao tỏ rạng. Noi gương đức Phật, hành giả phải đi vào cuộc đời với tâm vô trụ vô chấp, với tâm từ bi thương xót tha nhân, dùng mọi phương tiện quyền xảo đưa tha nhân đến bờ giác ngộ.
III. 3.2. Ứng dụng vào đời sống thực tiễn xã hội.
Trong Kinh Di Giáo Đức Phật dạy; nước trong bốn biển chỉ có vị mặn, trong giáo pháp của ta chỉ có một vị duy nhất đó là vị giải thoát. Để phục vụ cái mục đích duy nhất là giải thoát cho hết thảy chúng sanh ra khỏi sanh tử luân hồi Đức Phật đã quyền khai vô số phương tiện độ thoát chúng sanh. Thật vậy, sau khi thành đạo Đức Phật đã mở ra con đường giải thoát bằng vô số phương tiện. Và cũng nương nhờ Pháp Phương Tiện ấy mà chúng sanh đã dần nhận ra được chân tánh của mình nỗ lực tu tập thoát khỏi khổ đau sanh tử.
 Chúng sanh nương vào lời Phật dạy nhận thấy ba cõi vốn không an ổn, vạn pháp vô thường, thân tứ đại vốn dĩ khổ đau, nhận thức như vậy chúng sanh dần ra khỏi sanh tử. Như trong Kinh Bát Đại Nhơn Giác có dạy:“Đệ nhất giác ngộ; Thế gian vô thường, quốc độ nguy thúy, tứ đại khổ không, ngũ ấm vô ngã, sanh diệt biến dị, hư ngụy vô chủ, tâm thị ác nguyên, hình vi tội tẩu, như thị quán sát tiệm ly sanh tử.”[17] Từ những lời Phật phương tiện nói ra bằng ngôn ngữ, bằng đời sống tu tập của chính mình chúng ta như nhận được những thông điệp của trí tuệ, của nguồn sáng tràn đầy sức sống.
Thời Phật còn tại thế, có một người đàn bà lấy chồng đã mười năm mà chưa có con nên bị gia đình nhà chồng hất hủi. Bà chỉ mong có đứa con để được an ủi. Sau đó bà sinh được một đứa con. Nỗi mừng vui không sao kể xiết, bà đặt tất cả nguồn yêu thương và niềm hy vọng vào đứa con. Chẳng bao lâu, đứa con bị bệnh chết. Quá đau khổ, bà không chịu chôn con, bà bồng con đi tìm thầy thuốc mong cứu sống con. Nhưng không ai cứu được. Thấy bà quá đau khổ người ta bèn bảo bà tìm tới Đức Phật. Phật bảo: “ Con hãy đi xin cho Ta một nắm hạt cải ở nơi nhà nào mà xưa nay chưa từng có người chết, Ta sẽ cứu sống đứa trẻ “. Bà liền bồng con đi xin hạt cải hết nhà nầy đến nhà khác. Nhà nào cũng có hạt cải nhưng không nhà nào chưa từng có người chết. Càng đi bà càng thấy như có những tia sáng chiếu rọi vào tâm hồn bà làm cho bà tỉnh ngộ: Sống, Chết là định luật tất yếu của tất cả mọi người. Lúc ấy nỗi đau khổ của bà lắng xuống, bà liền đem chôn con và trở về bạch Phật: “Những điều Ngài dạy con đã làm xong”. Đó chính là xảo thuyết, cũng chính là Pháp Phương Tiện mà Đức Phật đã xử dụng để đưa một con người từ chổ khổ đau cùng cực, u mê tăm tối trở về với ánh sáng của thực tại. Bằng một cách giáo dục rất đơn giản Đức Phật đã chỉ cho chúng ta chân lí của cuộc đời. Pháp Phương Tiện đã giúp ta soi sáng cuộc đời mình bằng ánh sáng trí tuệ.
Nhận ra cuộc đời là sanh diệt khổ đau ta mới có ý thức chấp nhận thực tại để chuyển hóa cuộc sống. Như bà mẹ mất con kia nếu không nhờ Phật phương tiện giáo hóa thì nỗi đau ấy bao giờ dứt được. Nếu như lúc đó Phật không phương tiện bảo bà đi tìm hạt cải nơi nhà không có người chết mà nói ngay lí vô thường sanh diệt liệu bà ta có tin được không? Dứt khóat là ngay lúc đó bà sẽ không thể chấp nhận dù đó là sự thật. Vì sao? Vì lúc đó bà chưa trãi nghiệm thực tế khiến bà ta không thể chấp nhận. Biết vậy nên Đức Phật đã dụng phương tiện một cách khéo léo để cho chính bà ta trãi nghiệm qua sự thật và tự bà ta nhận ra chân lí của cuộc đời. Đức Phật thật là một Bậc Đạo Sư tuyệt vời Ngài không tuyên thuyết chân lí mà dùng phương tiện để người đời tự nhận ra chân lí của cuộc đời. Bởi chân lí vốn hằng hữu trong cuộc sống muốn nắm bắt nó ta phải trãi nghiệm chính bằng tự thân. Bậc đạo sư muốn chỉ bày thì phải dùng phương tiện.
Ta thấy rằng Pháp Phương Tiện không những chỉ có Phật mới xử dụng để chỉ bày chân lí mà Chư Tổ cũng áp dụng một cách triệt để, Tổ Bồ Đề Đạt Ma khi muốn khai tâm cho Thần Quang cũng đã dụng phương tiện một cách hết sức độc đáo. Chỉ một câu nói: “hãy đem tâm ra ta an cho”. Đạt ma đã làm cho Thần Quang bừng tỉnh, ngộ được chân tâm. Bởi câu nói đó đã khiến Thần Quang quay lại với chính mình để nhìn thấy sự thật các pháp vốn vô thường sanh diệt không có một cái “Ta” thực sự để thủ chấp. Ngay tại đó Thần Quang đã nắm bắt được ý chỉ của thiền tông an vui, tự tại giải thoát. Nếu không có Pháp Phương Tiện khai tâm độc đáo của Đạt Ma Tổ Sư thì làm gì có được một Huệ Khả siêu xuất sau nầy.
Vì mục đích của Thất Dụ là để chư Phật; “Khai Thị Chúng Sanh Ngộ Nhập Phật Tri Kiến”. Bởi chỉ có Thất Dụ diễn bày các pháp qua hình ảnh, ngữ ngôn còn thực tướng của vạn pháp vốn “Như Thị”. Như vậy, chúng ta có thể nói; Thất Dụ trong kinh Pháp Hoa đã đưa chúng sanh vượt thoát khổ đau, chứng nhập niết bàn an vui giải thoát.
 Cùng đồng hành với nhau trong suốt chặng đường lịch sử, dù là xung đột hay dung hòa, các tác phẩm văn chương vẫn bàng bạc những tư tưởng mang màu sắc giáo lý. Đặc biệt hơn,  các kinh điển Phật giáo từ khi được kiết tập và được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới đã giúp cho giáo lý Phật Đà được truyền bá khắp nơi. Những bộ kinh được dịch ra, nhìn từ cục diện khách quan có thể cho rằng đó là mục đích truyền đạo, nhưng khi nghiên cứu suốt chiều dài lịch sử của nó thì cách “dĩ văn tải đạo” này có một giá trị thiết thực. Quá trình  truyền tải thánh ý của Như Lai đến với chúng sanh đang đau khổ xem như là một mục đích chính. Tuy nhiên, trên bình diện văn học nghệ thuật, những tác phẩm kinh tạng Phật giáo đã mang lại cho nền văn hóa thế giới một kho tàng văn học nghệ thuật độc đáo. Giá trị tư tưởng trong lời dạy của đức Phật tạo cho nên nguồn cảm hứng sáng tạo mới mẻ cho giới học thuật nói riêng và cho những người học Phật nói chung.
Trong các tác phẩm văn học đại thừa Phật giáo, Kinh Pháp Hoa là bộ kinh thiết yếu và quan trọng nhất. Không riêng đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, mà tất cả ba đời mười phương chư Phật ba đời đều lấy kinh này làm phương hướng tu hành và truyền đạo trên lộ trình dẫn dắt chúng sanh đến quả vị nhất thiết chủng trí. Về phương diện văn học nghệ thuật thì Kinh Pháp Hoa là một tác phẩm văn học hòan chỉnh và vượt trên những tác phẩm văn học thông thường. Sở dĩ như thế là vì mọi tác phẩm văn học khác nhờ vào ngôn ngữ mà biểu đạt ý nghĩa, riêng ngôn ngữ của kinh Pháp Hoa là ngôn ngữ đạo đoạn, ngôn ngữ biểu tượng, ngôn ngữ trực chỉ,  ngôn ngữ để lìa ngôn ngữ. Bởi vì, bản thân của ngôn ngữ được sử dụng đã hàm chứa một sự nguy hiểm cố hữu: Bất cứ một phát biểu  nào hình như cũng là sự khẳng định về một cái gì đó.  Nghĩa là mọi ngôn ngữ xét cho đến cùng vẫn không thể nào lột tả được thực tại, bởi lẽ mọi ngôn ngữ đều là phương tiện.
 Khi tìm hiểu về ngôn ngữ biểu đạt, giá trị nghệ thuật cũng như tính giáo dục trong Phẩm Hóa Thành Dụ, người viết đã chỉ ra vài khía cạnh căn bản của nó. Mọi hiện tượng giới cuối cùng đều bị trôi chảy, mọi giá trị cuối cùng cũng chỉ là những giá trị mang tính tương đối khách quan. Thế nên, phương thức nghiên cứu của người viết cũng phải tuân theo quy luật tương đối của ngôn ngữ vậy.
Để báo đáp công ơn đức Phật, chúng ta, những hành giả Pháp Hoa phải thọ trì và đọc tụng kinh Pháp Hoa, phải thâm nhập cho được Phật tri kiến. Để noi gương đức Phật, chúng ta đi vào cuộc đời, giáo hóa tha nhân bằng một tâm từ bi vô lượng, dùng mọi phương tiện quyền trí hướng dẫn tha nhân tu tập hầu giải thoát sanh tử phiền não khổ đau, chứng đắc quả Niết bàn vô thượng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.   HT. Thích Trí Tịnh dịch, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, NXB. Tôn Giáo, 2007
2.   HT. Thích Trí Tịnh, Pháp Hoa Kinh Cương Yếu, NXB. Tổng Hợp TP.HCM, 2006
3.   HT. Thích Thiện Siêu, Lược Giảng Kinh Pháp Hoa, NXB. Tôn Giáo, 2003
4.   Thích Chơn Thiện, Tư Tưởng Kinh Pháp Hoa, NXB. Tôn Giáo, 1999
5.   Thích thiện Trí, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giảng Nghĩa, NXB. TP. Hồ Chí Minh, 1999
6.   Thiền Sư Minh Chánh, Pháp Hoa Đề Cương, Thích Nhật Quang dịch, NXB. TP. Hồ Chí Minh, 1999
7.   Thích Thiện Siêu, kinh pháp hoa giữa các kinh điển đại thừa, nxb. tp. hcm, 1999
8.   HT. Thích Trí Quảng, Lược Giải Kinh Pháp Hoa, NXB TP. Hồ Chí Minh, 1999
PHẦN CƯỚC CHÚ:
[1] TT. Tiến sĩ Thích đồng Văn (chủ biên) Lịch sử văn học hán tạng , Học viện Phật Giáo Việt Nam TP. HCM.
Lớp đại cương khóa xi.2012 tr 2.
[2] TT. Tiến sĩ Thích đồng Văn (chủ biên) Lịch sử văn học hán tạng , Học viện Phật Giáo Việt Nam TP. HCM.
Lớp đại cương khóa xi.2012 tr 3
[3] HT. Thích Trí Quảng, Lược Giải Kinh Pháp Hoa, NXB TP. Hồ Chí Minh, 1999 tr 100

[4]  Theothánh điển Phật giao, Bách khoa toàn thư wikipedia
[5] Thích Trí Quảng, Lược giả kinh Pháp Hoa, NXB Tôn giáo, 2004, Tr.10
[6] HT. Thích Trí Tịnh, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,  Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thứ 25, NXB. Tôn Giáo, tr 536.
[7] Thích Đồng  Văn, Đại cương văn học Hán Tạng, tr.51
[8]  HT. Thích Trí Tịnh, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,  Phẩm Thí Dụ thứ ba,, NXB. Tôn Giáo, tr 104.
[9]  HT. Thích Trí Tịnh, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,  Phẩm Tín Giải thứ tư, NXB. Tôn Giáo, tr 154.
[10]  HT. Thích Trí Tịnh, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,  Phẩm Dược Thảo Dụ thứ năm, NXB. Tôn Giáo, tr 187.
[11] HT. Thích Trí Tịnh, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,  Phẩm Hóa Thành Dụ thứ bảy, NXB. Tôn Giáo, tr 217.
[12]  HT. Thích Trí Tịnh, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,  Phẩm Ngũ Bá Đệ Tử thứ tám, NXB. Tôn Giáo, tr 267.
[13] HT. Thích Trí Tịnh, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,  Phẩm An LẠc Hạnh 14, NXB. Tôn Giáo, tr 335
[14] HT. Thích Trí Tịnh, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa,  Phẩm Như Lai Thọ Lượng thứ 16, NXB. Tôn Giáo, tr 403.
[15] Năm yếu tố đó là: tính tổ chức, sự biểu lộ của cá nhân, thể nhận và sử dụng đề tài, thiếu công năng thực dụng, tính hư cấu.
[16] Theo Ngài Thiên Thai Đại Sư
[17] HT. Thích Thiện Siêu, Lược Giảng Kinh Pháp Hoa, NXB. Tôn Giáo, tr. 114.

Zing Blog

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét